UNBTM là một u lành tính, có tính xâm lấn tại chỗ xuất phát từ cơ quan răng. Đây là một u có tổ chức học giống men răng nhưng biệt hóa theo hướng khác không tạo thành men răng. Dạng ban đầu của các tế bào u không rõ nhưng các tác giả đều cho rằng chúng xuất phát từ biểu mô tạo răng.
Khi bạn gặp phải tình trạng tương tự và nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về nó, đừng ngần ngại, hãy đặt câu hỏi cho bác sỹ TẠI ĐÂY. Hoặc comment Tại đây. Hoặc call Hotline: 0938 999 126.
Hãy cho chúng tôi biết băn khoăn của bạn, chúng tôi sẽ nỗ lực hết mình để cùng với bạn tìm ra đáp án cho bạn. Biết là khó, không dễ dàng gì cả! Nhưng cùng nhau, chúng ta có thể.
Phần lớn xảy ra ở hàm dưới, một số xảy ra ở hàm trên, vùng răng cối và đa số lan vào xoang hàm và sàn mũi
Giai đoạn sớm thường không triệu chứng, phát hiện tình cờ trên phim X quang
Khi u lớn, bệnh nhân thường than phiền có sự phồng xương nhưng không đau, maặt biến dạng nhẹ.
Khám trong miệng:
Có
một khối sưng cứng làm phồng ngách lợi, không đau, bề mặt nhẵn, tròn
hay bầu dục, niêm mạc phủ có màu hồng bình thường, răng trong vùng có
thể lung lay nhẹ hay lệch lạc.
Khi
u lớn, các dấu hiệu rầm rộ hơn, bệnh nhân thấy xương hàm mất cân xứng
rõ, khối sưng có kích thước nhiều cm và chiếm một khoảng lớn trong
miệng, gây cản trở chức năng. Bề mắt khối u thường phân thùy, niêm mạc
thường loét do sang chấn răng đối diện.
Trong
miệng khi sờ vào u thấy chỗ cứng chỗ mềm và có khi có dấu hiệu
pingpong, tùy mức độ phá hủy xương và thoái hóa nang của u. Các răng kế
cận thường sai vị trí hoặc lung lay nhiều. trường hợp kênh răng dưới bị
xâm lấn bệnh nhân có dị cảm môi dưới.
Gãy
xương bệnh lý có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị phá hủy vỏ xương và
cũng có thể kèm theo viêm xương thứ phát làm cho bệnh cảnh lâm sàng thêm
phức tạp
Bệnh sinh
UNBTM
là một u lành tính, có tính xâm lấn tại chỗ xuất phát từ cơ quan răng.
Đây là một u có tổ chức học giống men răng nhưng biệt hóa theo hướng
khác không tạo thành men răng. Dạng ban đầu của các tế bào u không rõ
nhưng các tác giả đều cho rằng chúng xuất phát từ biểu mô tạo răng.
Chính vì xuất phát từ biểu mô thuộc ngoại phôi bì của bộ máy tạo rang nên UNBTM có thể xuất phát từ:
Lá răng (dental laminal)
§ Cơ quan tạo men (enamel organ)§
Tế bào§ Malassez
Biểu mô nang do răng§(nhắc lại quá trình hình thành răng)
Trong
quá trình hình thành răng một cách bình thường, nguyên bào tạo men hình
thành nên tạo men bào gây cảm ứng lên các nguyên bào tạo ngà để hình
thành nên các tạo ngà bào. Trong UNBTM, các nguyên bào tạo men đã biệt
hóa theo một hướng khác không tạo thành tạo men bào nhưng vẫn gây đáp
ứng trên các tạo ngà bào (thuộc trung bì) làm cho các tạo ngà bào cũng
biệt hóa theo một hướng khác vì vậy ngoài UNBTM xuất phát từ biểu mô còn
có UNBTM có nguồn gốc hỗn hợp.
Trên
lâm sàng, chúng ta không thể phân biệt UNBTM xuất phát từ nguồn gốc
biểu mô hay có nguồn gốc hỗn hợp. Trong phạm vi bài này chỉ khảo sát các
UNBTM nói chung.
Dịch tể học.
Tần suất
UNBTM là một u rất hay gặp ở vùng hàm mặtR B Lucas: UNBTM chiếm tỷ lệ 1% các loại u vùng miệng
Tại
Việt Nam : UNBTM rất hay gặpNguyễn Văn Thụ (1975): 50,4 u lành xương
hàmBùi Hữu Lâm (1986): 20% u lành xương hàm kể cả nang, 40% u lành xương
hàm không kể nangb.
Tuổi
U
xảy ra ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên lứa tuổi trung bình được ghi nhận khác
nhau bởi các tác giả khác nhauSmall & Waldron (1955): 33
tuổiSirichitra & Dhiravarangkura (1984) phân tích trên 147 bệnh nhân
người Thái; Ajagbe & Daramola (1987)) trên 199 bẹnh nhân: 32
tuổiHầu hết các tác giả đều cho rằng UNBTM thường tập trung ở lứa tuổi
20-40 tuổi
Tại
Viện RHM TPHCM, tuổi nhỏ nhất được ghi nhận là 8 tuổi, lớn nhất là 76
tuổi, lứa tuổi 10-30 tuổi chiếm 53%c. GiớiSirichitra &
Dhiravarangkura (1984): nam:nữ = 1,1:1Ajagbe & Daramola (1987) :
nam:nữ = 4:3Adekey (1980): nam:nữ = 1,7:1Bùi Hữu Lâm (1986): nam nữ =
1:1d.
Chủng tộc
Gặp ở người châu Phi nhiều hơn người da trắng
Mỹ: 0,07% u các loại
Đan Mạch: 0,1% u các loại
Châu Phi: 3,6% u các loại
Bên cạnh đó, tỉ lệ UNBTM ở Hàn Quốc cũng ghi nhận với tỉ lệ khá cao.
Vị trí
Do
xuất phát từ cơ quan tạo men nên UNBTM chỉ liên quan đến tổn thương XHT
và XHDTheo Fonseca: tỉ lệ XHD:XHT = 4,5:1Đối với XHT:UNBTM xuất hiện
thường liên quan đến xoang hàm.
Điều
này cần phải được lưu ý vì sang thương ở vị trí này có tính xâm lấn
cao, tỉ lệ tái phát lớn cũng như thoái hóa ác tính và rất dễ di căn.
UNBTM thường xuất hiện ở sau răng nanh
Đối với XHD:
R
B Lucas: 80% UNBTM thường gặp ở XHDNorman K Wood (1996): 83,5% - 88%
Xuất hiện ở xương hàm dưới trong đ1o 61%liên quan đến vùng góc hàm-cành
caoBùi Hữu Lâm (1986): 85% UNBTM xuất hiện ở XHD trong đ1o 80% ở cành
ngang vùng răng cối, 50% UNBTM phát trểin ở hàm trêncũng ở vùng răng cối
và đa số lan vào xoang hàm và nền mũiPhân loại
Về lâm sàng,
Chúng ta có thể chia UNBTM thành hai loạiUNBTM ngoại biên (peripheral
ameloblastoma, epulis-like tumor) UNBTM trung tâm (central
ameloblastoma)
a. UNBTM ngoại biên
Là một dạng mới của UNBTM được báo cáo
lần đầu tiên vào năm 1987 bởi Woo và cộng sự
Được
cho rằng do sự lạc chỗ của mô tạo răng đến phần nướu hay XOR từ đó có
sự sai biệt về quá trình biệt hóa dẫn đến tạo thành u men.Về lâm sàng
biểu hiện bằng một khối u với bề mặt nhẵn láng một thuỳ hay nhiều thùy
do nó có cấu tạo bởi mô liên kết được bao phủ bởi một lóp biểu mô.
UNBTM
thường có sự kết hợp giữa UNBTM dạng nang và acanthomathousb. UNBTM
trung tâmLà loại UNBTM thường gặp nhất. Trong phạm vi bài này, chúng ta
chỉ khảo sát chủ yếu UNBTM trung tâm
Triệu
chứng
Đối với XHDBao gồm ba giai đoạn Giai đoạn sớmvU phát triển chậm và
gần như không gây triệu chứng nào ( The ameloblastoma grows slowly and
silent without clinical signs in the early stage)
Thường chúng ta chỉ phát hiện tình cờ trên phim Xquang.
Tuy
nhiên chỉ dựa vào phim Xquang để kết luận đó là UNBTM giai đoạn sớm thì
không chính xác. Giai đoạn UNBTM phátv triểnUNBTM phát triển theo mọi
hướng gây phá huỷ xương và các cấu trúc lân cận như chân răng, thần
kinhvà gây ra một số triệu chứng tuy nhiên vẫn không điển hình.
Khi u có kích thước lớn, bệnh nhân thườpng than phiền về mặt thẩm mỹ do
sự phồng xương làm mặt biến dạng. Trong miệng, khám có khối sưng
cứngphồng ngách lợi, không đau , bề mặt nhẵn, niêm mạcphủ bên trên vẫn
có màu hồng.
Răng trên u có thể lung lay nhe hoặc lệch lạc.Theo Ueno&cs (1986):
29% cảm thấy đau và không thoải mái, 26% than phiền có khối sưng cứng,
phồng ngách lợi làm mặt biến dạng
Giai đoạn nặng
U
có kích thước lớn, bề mặt phân thuỳ va thường loét, in dấu răng do sang
chấn với răng kế bênTrong giai đoạn này, bệnh nhân thường đau nhiều có
thể do bội nhiễm, răng lunh lay nhiều hay bị đẩy lệch.
Trường hợp u có kích thước quá lớn xâm lấn kệnh răng dưới có thể gây dị cảm môi dứôi thậm chí còn gây gãy xương bệnh lý
Đối với XHTTuỳ vào mức độ phát triển, kích thước và khả năng xâm lấn mà có các triệu chứng sau đây:
Khối sưng ở tầng giữa mặt
Nghẹt mũi
Mất ngửi
Tê môi trên, má, cạnh mũi do thần kinh V2 bị ảnh hưởng
Hình ảnh XquangHình ảnh Xquang của UNBTM khá đa dạng và thay đổi tùy theo:
-* Vị trí u:
-* Thời gian phát triển của u:
-* Mức độ thoái hóa nang của u
Tuy nhiên UNBTM luôn có hình ảnh thấu quang và được chia thành hai nhóm:
"> Thấu quang một hốc:
"> Thấu quang đa hốc
Thấu quang đa hốc
-Hình ảnh thấu quang đa hốc có tính chất đặc trưng đối với UNBTM,
Hình ảnh đa hốc thừơng có dạng bọt xà phòng hoặc hình ảnh tổ ong
-Một
UNBTM có kích thước nhất định và với cấu trúc mô học của nó sẽ phát
triển và phá huỷ xương cả ba chiều trong không gian tạo nên hình ảnh tổ
ong hoặc bọt xà phòng.
Tuy nhiên quá trình tiêu xương để tạo nên hình ảnh đa hốc cho tới nay vẫn còn là một ẩn số.
-Ở
UNBTM có hình ảnh đa hốc, kích thước các hốc không đều nhau và các hốc
ngăn cách nhau bởi một vách xương mỏng với các mức độ cản quang khác
nhau
Thấu quang một hốc
-Khác
với thấu quang đa hốc, thấu quang một hốc thường không mang tính đặc
trưng cao của UNBTM mà nó rất dễ lầm lẫn với các sang thương khác.
-Hình
ảnh thấu quang một hốc giúp ta nghĩ đến UNBTM khi thấu quang đồng nhất,
có đường viền chung quanh rõ nhưng không có hình ảnh tụ cốt
Liên quan đến răng của hình ảnh Xquang
-Ueno
và cs trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng UNBTM liên quan đến răng
chiếm 38% và 82% trong số này có liên quan đến răng 8
-Sirichitra
và Dhiravaravangkura (1984): 38%ccó tiêu ngót chân răng-Struthers
&Shear: 81%trong u men, 55% trong nang thân răng và 18% trong các ca
nang nhiễm trùng
-Trong
hình ảnh X quang, ngoại tiêu chóp thường có dạng dao cắt tại đường viền
của sang thương. Nếu chân răng không bị ngoại tiêu thường sẽ bị đẩy
lệch và biểu hiện trên lâm sàng là răng sai vị trí.
Giải phẫu bệnh
1. Đại thể
Dựa vào cấu trúc đại thể của UNBTM, người ta có thể phân thành hai loại:
-UNBTM
dạng nang ( Follicullar ameloblastoma): Có cấu trúc bên ngoài là bao
nang nhưng trên thành của lớp bao nang có những đảo tế bào u với kích
thước và hình dáng khác nhau
-UNBTM
dạng đám rối (plexiform ameloblastoma): Có cấu trúc bởi các tế bào biểu
mô đứng gần nhau và liên kết nhau để tạo thành dạng sợi do đó có cấu
trúc đặc hơn UNBTM dạng nang.
2. Vi thể
UNBTM
xuất phát từ biểu mô của cơ quan tạo men hay chính xác hơn từ nguyên
bào tạo men chưa biệt hóa. Trong quá trình phát triển các tế bào này có
thể biệt hóa và đôi khi có sự chuyển sản tạo nên các loại tế bào khác
nhau xuất phát từ nguyên bào tạo men.
UNBTM xuất phát từ biểu mô có các dạng sau đây: Simple ameloblastomaü
Acantho amoloblastomaü Granullar cellü ameloblastoma Adeno
ameloblastomaü Melano ameloblastomaü
Tương
tự như vậy, UNBTM có nguồn gốc hỗn hợp cũng có các dạng sau đây:
Ameloblasticü fibroma Ameloblastic odontomaü Ameloblastic hemangiomaüü
Ameloblastic neurinoma
*Nếu
xét về dạng vi thể của hai dạng đại thể UNBTM dạng nang và dạng đám rối
thì UNBTM dạng nang được chia thành hai loại: solic và cystic.
Về
vi thể cả hai tương đối giống nhau vì cùng được bao phủ bởi lớp mô liên
kết, bên trong là lớp biểu mô mà trên đó có những cấu trúc đặc trưng
của UNBTM và trong cùng chứa dịch. Tuỳ theo thể dịch mà chúng ta phân
thành hai loại: Nếu là dịch đặc thì đó là solid và ngược lại.
Điều trị
Quan
điểm điều trị đối với UNBTM thay đổi theo từng thời kỳ nhưng hiện nay
quan điểm bảo tồn đang được ưa chuộng. Tuy nhiên qua các phân tích trên
đây chúng ta nhận thấy rằng, tuỳ từng loại u men về mặt vi thể mà ta có
cách điều trị thích hợp để tránh tái phát
1. Curretage
Chỉ
áp dụng cho UNBTM có kích thước tương đối nhỏ. PT này là PT không triệt
để thường gây tái phát cao do dễ sót tế bào u nếu không dùng cách khác
hỗ trợ.
2. Enucleation
Về
mặt lý thuyết, nó an toàn hơn curretage nhưng áp dụng trên lâm sàng đối
với những UNBTM có vỏ bao khá mỏng thì enucleation dễ dàng thành
curretage. Khi đó chúng ta sẽ hỗ trợ thêm bằng cách cắt xương quanh u
(Peripheral osectomy)
3. Block resection
U được lấy ra nguyên khối với xương chung quanh và cung răng. Nếu u phá huỷ và lan ra mô mềm thì nên cắt bỏ một phần mô mềm
4. Segmental resectionĐây là phương pháp triệt để được sử dụng trong trường u có tính xâm lấn và phá hủy cao.
Tuy nhiên nó để lại di chứng biến dạng mặt sau mổ
5. Disarticulation
Đây là phương pháp triệt để giống như Segmental resection nhưng kèm tháo khớp cùng bên u nếu u xâm lấn đến khớp.
Trên XQ có thể phân biệt được một nang chân răng với một u men hay ko?
Phần
lớn trường hợp để có thể phân biệt được nang chân răng với u men ngoài
phim tia X, cần kết hợp thêm thăm khám lâm sàng mới có thể đánh giá phần
nào sang thương. Có một số trườg hợp sang thương thấu quang lớn, lan
rộng vùng xương hàm dưới từ càng ngang lên đến cành cao, được chẩn đoán
lâm sàng là u men, nhưng sau phẫu thuật, kết quả giải phẫu bệnh lý lại
là nang xương hàm viêm.
Ngược
lại, có những hình ảnh thấu quanh nhỏ khu trú, chẩn đoán lâm sàng là
nang quanh chóp răng nhưng kết quả giải phẫu bệnh lý lại là u men dạng
nang.
Thường phim tia X góp phần gợi ý và hướng dẫn bác sỹ lên kế hoạch
điều trị.
Dựa
vào phim X, người bac sỹ lâm sàng có thể đánh giá kích thước của sang
thương, hình dạng, mức độ xâm lân đối với mô xung quanh, mức độ hủy
xương, kích thước phần xương lành còn lại...từ đó đưa ra hương chẩn đoán
và kế hoạch điều trị.
U
men thường có kích thước lớn, lan rộng phía ngoài nhiều hơn phía trong,
trên phim X quang thường có dạng thấu quang một hay nhiều hốc, chân
răng liên quan đến hốc thấu quang thường bị tiêu ngót...