Năm 1860 chỉnh nha dưới thời Norman Kingsley để chỉnh có đặc điểm là "nhảy khớp". Ông cũng sử dụng rộng rãi dây thun cao su và lò xo ngón tay có độ bền không rõ tạo ra tác động liên tục.
Khi bạn gặp phải tình trạng tương tự và nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về nó, đừng ngần ngại, hãy đặt câu hỏi cho bác sỹ TẠI ĐÂY. Hoặc comment Tại đây. Hoặc call Hotline: 0938 999 126.
Hãy cho chúng tôi biết băn khoăn của bạn, chúng tôi sẽ nỗ lực hết mình để cùng với bạn tìm ra đáp án cho bạn. Biết là khó, không dễ dàng gì cả! Nhưng cùng nhau, chúng ta có thể.
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết này
Quan
sát về sự mọc và di của răng đã được nhận ra trong trường hợp răng dần
dần bị chen chúc, cùng với sự di răng dẫn đến thưa kẽ răng xuất hiện khi
răng bị mất. Cả hai đã cung cấp đủ bằng chứng khoa học cho hiện tượng
di chuyển răng thậm chí đối với người không chuyên môn.
Năm
1860 chỉnh nha dưới thời Norman Kingsley để chỉnh có đặc điểm là "nhảy
khớp". Ông cũng sử dụng rộng rãi dây thun cao su và lò xo ngón tay có độ
bền không rõ tạo ra tác động liên tục.
Năm
1880, Coffin ở Anh quốc với lò xo khẩu cái hình chữ W và Jackson với
khí cụ "cũi" bằng dây thép và Matteson ở Mỹ dùng loop vòng xoắn (helix
loop) như tất cả các nhà nghiên cứu ủng hộ sự tác động lực liên tục.
Năm 1893 Goddard về bản chất đã chẻ đôi bản nền, làm lún răng và trồi răng, và đã sử dụng đinh ngoài trong.
Năm
1885 E. H. Angle, rất ý thức về tính chính xác. Ông bị cuốn hút vào khí
cụ có xoắn ren. "Nguyên lý con ốc" được dùng trong thiết kế khí cụ làm
cho khí cụ mảnh mai hơn so với những khí cụ được làm cá nhân lớn và thô
sự dụng trước đây.
Các
khí cụ của Angle, bao gồm cả khí cụ edgewise vào năm 1930, đựơc khuyến
cáo dùng với lực ngắt quãng. Các đầu của dây cung được chế tạo để được
đưa vào trong các "ống má". Các chìa khóa nhỏ được trao cho bệnh nhân để
tự điều chỉnh lực.
Năm
1921 Calvin Case là một người đương thời với Edward Angle, xuất bản
công trình làm trồi và lún răng, ông đã gắn khâu vào răng và gắn các
cleat, chứ không phải mắc cài.
Năm
1928 Dr. Spencer Atkinson có bằng sáng chế về mắc cài "phổ thông" dùng
ban đầu với dây tròn nhỏNăm 1940 Dr Joseph Johnson với dây tròn đôi nhỏ
.Năm 1950 Dr Raymond Begg dùng dây tròn có nhiều loop cho kỹ thuật .
Năm 1960 Dr Joseph Jarabak loại trừ thực hành lực ngắt quãng ra khỏi hệ thống edgewise truyền thống.
Năm 1952 Anthony Storey, cùng với một kỹ sư có tên là Smith, đã làm thí nghiệm lâm sàng trong các tình huống nhổ răng.
Vào
thập niên 1950 và 1960, chỉnh nha đứng trước tình trạng tiến thoái
lưỡng nan, tình trạng này dâng cao hơn do khan hiếm thuật ngữ và khả
năng trao đổi. Ngăn chặn là nguồn đề kháng đối với sự di chuyển răng vẫn
chưa được đồng thuận.
Cũng
trong những năm này, sự đóng góp của tăng trưởng vào cơ học điều trị
vẫn còn là bí ẩn. Cơ được nói đến nhiều nhưng khó mà đánh giá được cơ.
Vào thập niên 1960, Ricketts hợp tác với cả Reitan và Storey cho một giả
thuyết liên quan với lực.Sau nhiều năm thí nghịệm, mắc cài chỉnh nha
0,018" được xác định vào năm 1958 với sự hợp tác với Dr.C. Steiner và
Dr. H. Lang.
Đo
lường lực và kết quả lâm sàng đã dẫn đến sự giảm từ 0,018" x 0,022"
thành 0,017" x0,022", thành 0,016" x 0,022" và cuối cùng thành 0,016" x
0,016". (dây nhỏ hơn được tìm kiếm để dùng với mắc cài nhỏ hơn). Vào năm
1980, khỏang 10% bác sĩ chỉnh nha dùng rãnh 0,018.
Tính
đến 1997, sự sử dụng nó tăng lên 50% và sẽ có thể tiếp tục trở nên phổ
biến hơn, vì nó được dạy ở các chương trình sau đại học.
Dr.
Edward Angle, "người cha" của mắc cài chỉnh nha. Tất cả các khí cụ cố
định (hay mắc cài) hiện nay là những biến thể của hệ thống khí cụ
edgewise.Giới thiệu về Dr. Edward Angle "người cha" của mắc cài chỉnh
nha.
Nhân
vật thống trị, năng động và có ảnh hưởng nhiều nhất trong chỉnh nha là
Edward H. Angle (1855 - 1930). Ông được xem như "Cha đẻ của ngành Chỉnh
nha."
Có
lẽ không có người đàn ông nào trong ngành Nha có thể phát triển nhánh
này của nha khoa thành một chuyên ngành, tách biệt hẳn với những thực
hành tổng quát và ủng hộ nó như là một ngành khoa học chuyên biệt được
thừa nhận.
Ông
lấy bằng nha sĩ năm 1878. Angle quyết định ông có thể làm việc hiệu quả
hơn với một nhóm nhỏ bằng cách chọn nhóm ở văn phòng Saint Louis. Năm
1908, ông đã bỏ hành nghề của mình ở Saint Louis và di chuyển, đầu tiên
là đến New York, sau đó là New Lon don, và cuối cùng là Pasadena, Calif.
(1916).
Ông
sáng lập được trường sau ĐH đầu tiên về chỉnh nha (1900) (Angle School
of Orthodontia). Ông cũng là người sáng lập của tạp chí chỉnh nha Hoa Kỳ
đầu tiên, The American Orthodontist, năm 1907.
Sự
phân chia theo Angle, xuất bản trong Dental Cosmos (1899), đến nay vẫn
còn là phân loại sai khớp cắn được chấp nhận rộng rãi nhất.
Phiên
bản thứ bảy và phiên bản cuối của quyển sách, Treatment of Malocclusion
of the Teeth (Điều trị sai khớp cắn của răng) (1907), đã trở thành
khuôn mẫu cho ngành chỉnh nha. Angle đã giữ 37 tác quyền; những khí cụ
đáng ghi nhớ nhất của ông là cung E (1900), ống và dây (1910), cung ruy
băng (1916), và khí cụ edgewise (1925). Khí cụ edgewise, với những điều
chỉnh, trở thành khí cụ thường dùng nhất trong chỉnh nha.
Angle
đã tổ chức hội Chỉnh nha đầu tiên (1900), (bây giờ là Hiệp hội chỉnh
nha Hoa Kỳ), và trở thành chủ tịch đầu tiên.Vào năm 1908, Angle kết hôn
với người thư ký lâu năm của mình, Anna Hopkins (1872 - 1957), người đã
có bằng nha sĩ ở trường ĐH Iowa và theo học chỉnh nha tại trường của
ông.
Anna
Hopkins đã trở thành thư ký của Hiệp hội chỉnh nha Hoa Kỳ, đồng sáng
lập biên tập của Angle Orthodontist, nằm trong ban chấp hành danh dự của
hội Angle.
Ông
là một thầy giáo có ảnh hưởng nhiều, và lý tưởng của ông đã khơi nguồn
cảm hứng cho hai thế hệ môn đệ của ông trở thành những nhà lâm sàng,
giảng viên, và nhà quản lý chuyên khoa hàng đầu. Khi ông mất đi, những
môn đệ đã lập ra Hội chỉnh nha Edward H. Angle.